Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Bạch cập hay hay - Vị thuốc cầm máu.

Đồng thời lấy bông thấm thuốc nhét vào lỗ mũi

Bạch cập - Vị thuốc cầm máu

Trong y khoa cổ truyền, bạch cập có vị đắng, ngọt, hơi dính, tính lạnh, không độc, có tác dụng bổ phổi, cầm máu, sinh cơ, làm tan máu ứ, hàn vết thương, được dùng trong những trường hợp sau:    Dùng trong:      Chữa chảy máu cam:   bạch cập phơi khô kiệt, tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 2 lần, mỗi lần 4 - 8g.

DSCKII. Dược liệu có hình bánh dày dẹt phẳng, có ngạnh, mặt ngoài có vân nhỏ đồng tam, chất cứng chắc, khó bẻ gãy, mặt cắt giống chất sừng. Chữa thổ huyết, chảy máu bao tử:   bạch cập 100g, tam thất 50g, tán bột ngày uống 6 - 12g chia làm 2 - 3 lần.

Đỗ Huy Bích. Tất cả đồng tình bột mịn, mỗi lần uống 12 - 20g vào lúc đói. Thân rễ (thường gọi là củ) là bộ phận dùng làm thuốc độc nhất của bạch cập được thu hái tốt nhất vào mùa thu đông, cắt bỏ gốc thân và rễ con, rửa sạch, đem đồ hoặc nhúng vào nước sôi cho đến khi mặt trong và thân rễ có màu trắng đục, rồi bóc vỏ ngoài phơi nắng nhẹ hoặc sấy nhỏ lửa cho khô.

Dùng ngoài:     Chữa mụn nhọt, sưng tấy, bỏng lửa:  bạch cập phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn, hòa vào dầu vừng bôi hàng ngày. Thành phần hóa học của bạch cập gồm tinh bột 30%, chất nhầy và ít tinh dầu.

Thứ củ mập dày, màu trắng đục, chất đặc rắn là loại tốt. Chữa loét bao tử, phân đen:  bạch cập 40g, trầm hương 20g, hoài sơn 20g (sao). Bạch cập. TTƯT.