Có tác dụng chống ho, long đờm, kích thích tiêu hóa, cầm nôn
Liều dùng hàng ngày 6-10g quả khô. + Hạt (hoàng bì quả hạch) và rễ (hoàng bì căn) có vị đắng, cay, the, tính ấm.Lá kép mọc so le, gồm 5-13 lá chét, hình trái xoan, lá chét cuối hình trứng; nguyên hay hơi khía tai bèo, đầu nhọn, phía cuống lá hơi lệch; có nhiều điểm tuyến chứa dầu. Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy: Lá quất hồng bì có tác dụng bảo vệ tế bào gan; hạ đường huyết và lipid huyết; kìm hãm sự phát triển của một đôi chủng ký sinh trùng sốt rét, tụ cầu vàng và một số vi khuẩn gây bệnh đường ruột.
Hoặc dùng “Hoàng bì long nhãn diệp thang”: Lá hồng bì, lá nhãn, mỗi thứ 30g, dã cúc hoa 15g, sắc nước uống, mỗi tuần 3 lần. - Chữa đau thắt dưới tim hoặc giun đũa chòi lên: Dùng quả quất hồng bì tươi, nhai và nuốt cả vỏ. - Chữa ho gà: Dùng quả quất hồng bì, vỏ rễ dâu, cam thảo, mỗi thứ 10-12g, sắc nước uống trong ngày.
Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). ) Skeels [Clausena wampi (Blanco) Oliv. Dùng chữa cảm mạo, sốt, sốt rét, ho. Trong điều kiện gia đình, có thể dùng hồng bì để chữa trị một số chứng bệnh theo những phương pháp như sau: - Phòng ngừa cảm cúm: (1) Dùng lá quất hồng bì khô 6-10g (hoặc 20-30g tươi), sắc uống, liên tiếp 3-6 ngày.
+ Đáp : quất hồng bì là loài cây được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta để lấy quả ăn. - Chữa rắn cắn: Dùng hạt quất hồng bì nhai nát, nuốt nước, bã đắp lên nơi rắn cắn. - Chữa đau bao tử, đau bụng co thắt: Dùng hạt hồng bì, phơi hay sấy khô = sao thơm, tán mịn ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 6-10g; chiêu bằng nước hoặc rượu nhạt.
]. Tên khoa học là Clausena lansium (Lour. Mùa hoa: tháng 4; mùa quả: 6-10. - Bí tiểu tiện: Dùng lá quất hồng bì 4-5 lá, rượu 30-40ml, thêm nước sắc uống. Có tác dụng giảm đau, xúc tiến tiêu hóa, dùng chữa đau dạ dày, đau vùng thượng vị, đau bụng co thắt. Hoa trắng mọc thành chùy ở ngọn, chùy thưa hoa, dài 25-50cm
Hoặc dùng 20g quả khô (hay 50g quả tươi) sắc nước uống vào lúc đói. Theo Đông y: + Lá (hoàng bì diệp) có vị đắng và cay, tính bình hơi ấm; Có tác dụng giải cảm, hạ sốt, long đờm và giảm ho. Quất hồng bì là loài cây “thực dược lưỡng dụng” – vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. - Chữa ho do ngoại cảm (ho gió): Dùng vài quả quất hồng bì (khoảng 20-30g), bổ đôi, hấp với đường, chia ra ăn trong ngày.
Theo một thông báo về kết quả thử nghiệm lâm sàng: sử dụng quất hồng bì để điều trị lỵ amíp và lỵ trực trùng (kết hợp với khổ luyện tử, hòe hoa) cho kết quả tốt hơn tân dược ganidan và tetracyclin. Quất hồng bì là loài cây “thực dược lưỡng dụng” – vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. Liều dùng hàng ngày: hạt 6-10g; rễ 10-20g. Liều dùng hàng ngày 20-40g.
+ Quả (hoàng bì quả) có vị ngọt và chua, tính bình hơi ấm. Dân gian thường dùng để nấu nước gội đầu, cho sạch gầu và mượt tóc.
Về mặt thực vật, hồng bì là một loại cây gỗ, cao 3-5m, cành non hơi ráp, xù xì do có nhiều hạch (tuyến).
Quả màu vàng, hình cầu, đường kính 15mm, có lông, 1-2 ngăn, chứa một hạt to; thịt quả ngọt thơm. - Chữa sán khí (sa đì): Dùng vỏ rễ quất hồng bì 60g, tiểu lát 15g, sắc lấy nước, thêm chút rượu trắng vào uống ấm, ngày 1-2 lần.
Lá thường dùng tươi hoặc phơi khô, dùng làm thuốc với tên “hoàng bì diệp”; Quả có thể dùng tươi hoặc hái về, để nguyên hay bổ dọc, phơi nắng hay sấy khô, dùng làm thuốc với tên “hoàng bì quả”; hạt dùng làm thuốc với tên “hoàng bì quả hạch”; rễ gọi là “ hoàng bì căn”; vỏ rễ gọi là “hoàng bì căn bì”,. Dùng chữa tiêu hóa kém, buồn nôn, ho, ho gà.
Rễ còn dùng chữa cảm mạo, phong thấp, dùng cho nữ giới sau khi đẻ. Cây còn có tên là “quất quất hồng bì”, “hoàng bì” , “kim đạn tử”, “do bì”, “do mai”,.
Thảy các bộ phận của cây, đều có thể dùng làm thuốc chữa bệnh. Hạt còn chữa rắn cắn.